Hiệu quả trong công tác đào lò than áp dụng công nghệ chống giữ bằng neo chất dẻo cốt thép kết hợp neo cáp tại Công ty cổ phần Than Núi Béo
20:49 27/02/2019
Do nhu cầu sử dụng than của các hộ tiêu thụ đã tăng mạnh so với trước đây nên sản lượng than nguyên khai (TNK) cũng tăng dần theo từng năm.Năm 2017 sản lượng TNK đạt 35 triệu tấn, kế hoạch năm 2018 sản lượng TNK đạt 36 triệu tấn, và dự kiến tới năm 2030 sản lượng TNK đạt 60÷80 triệu tấn. Sản lượng khai thác hầm lò ngày càng tăng nên số lượng mét lò đào cũng ngày một lớn.
Đứng trước cơ hội và thách thức, với mục tiêu không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao tốc độ đào lò, giảm giá thành, cải thiện điều kiện làm việc của thợ lò, đồng thời phù hợp với chủ trương của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam về việc đẩy mạnh đào chống lò bằng vì neo trong đó có việc nghiên cứu triển khai chống neo tại các đường lò trong than. Ngày 9/5/2018 Công ty CP than Núi Béo đã được Cục Kỹ thuật An toàn – Bộ Công thương cấp phép sử dụng rộng rãi công nghệ đào chống lò bằng neo chất dẻo cốt thép tại các đường lò trong than.
Sử dụng tổng hợp đá thải sau sản xuất than
02:14 12/12/2014
Đá thải sau sản xuất than (Đá thải), là sản phẩm xít thải trong quá trình khai thác và gia công chế biến than. Đá thải chiếm khoảng 15-20% sản lượng khai thác và gia công chế biến than. Đá thải sau khi khai thác và gia công chế biến thường được tích đống hoặc lấp biển; dưới tác dụng của thời gian, mưa gió, ánh nắng mặt trời…, mà tạo ra một lượng lớn: cát bụi, nước có tính axit và có chứa các ion kim loại nặng… gây ô nhiễm môi trường khí quyển, môi trường nước, môi trường đất, đặc biệt gây nguy hại đến sức khỏe của con người. Hơn nữa, nếu đá thải không được sử dụng một cách hiệu quả sẽ gây lãng phí tài nguyên, do đó cần nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp, phương pháp sử dụng một cách tổng hợp nguồn tài nguyên khoáng sản này.
Đánh giá hiện trạng khai thác hầm lò vùng Quảng Ninh và định hướng áp dụng cơ giới hóa khai thác than vỉa dốc đứng tầm nhìn 2020
03:57 19/06/2014
Nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển sản lượng khai thác từ 47,5 triệu tấn năm 2010 lên 74,6 triệu tấn năm 2020 của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, trong đó sản lượng than hầm lò tăng từ 20,4 triệu tấn hiện nay lên 40,6 triệu tấn năm 2015, các Công ty than hầm lò vùng Quảng Ninh đã liên tục đổi mới công nghệ và triển khai áp dụng các tiến bộ khoa học trong nhiều lĩnh vực như: công nghệ khai thác, vận tải, hệ thống kiểm soát khí mỏ và hệ thống định vị, giám sát người trong lò... Ngoài việc áp dụng các tiến bộ khoa học, hầu hết các công ty đã phải mở rộng quy mô sản xuất và huy động nhiều diện vào khai thác, trong đó có các khu vực vỉa dốc, điều này đã đặt ra không ít những khó khăn và thách thức đối với các Công ty than hiện nay và trong những năm tới trong việc lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp với điều kiện địa chất khu mỏ.
Nghiên cứu xác định vị trí làm việc của quạt cục bộ để thông gió cho đường lò xuyên vỉa mức -300 mỏ than Hà Lầm
03:46 19/06/2014
Hiện tại Công ty than Hà Lầm đang thực hiện khai thác phần than từ mức -150 lên Lộ vỉa và đào lò xây dựng cơ bản, chuẩn bị diện sản xuất dưới mức -150. Khi nâng cao sản lượng khai thác than và mở rộng diện sản xuất theo hướng khai thác xuống sâu đối với các mỏ than hầm lò nói chung và Công ty than Hà Lầm nói riêng khi đó tổng số mét lò đào tăng lên đáng kể trong đó tỷ lệ các đường lò có chiều dài lớn chiếm một phần không nhỏ. Đường lò Xuyên vỉa mức -300 mỏ than Hà Lầm có tổng chiều dài khoảng 2400m. Trong quá trình thi công việc lựa chọn phương pháp thông gió hợp lý khi đào đường lò này và xác định các thông số làm việc của quạt cục bộ là cần thiết và cấp bách nhằm đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả thông gió khi đào lò. Do đó việc xác định năng lực của quạt cục bộ và vị trí đặt các quạt phân tán dọc đường lò hợp lý sẽ có ý nghĩa rất lớn để đảm bảo quá trình thông gió khi đào đường lò xuyên vỉa -300 mỏ than Hà Lầm.
Lựa chọn quy mô đầu tư phù hợp cho các mỏ nhỏ khai thác lộ thiên khoáng sản rắn ở Việt Nam
21:09 27/02/2014
: Trên cơ sở luận giải về mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cơ bản đặc trưng cho nội hàm công nghệ khai thác lộ thiên. Tác giả bài báo đã thiết lập mối quan hệ thực tiễn giữa các yếu tố quy mô đầu tư, đặc trưng bởi vốn đầu tư xây lắp và thiết bị với quy mô sản lượng và tổng doanh thu, nhờ xử lý số liệu thống kê với công cụ xác xuất thống kê toán. Việc lựa chọn hợp lý quy mô đầu tư cho các mỏ nhỏ khai thác lộ thiên khoáng sản rắn nhờ đó được giải quyết có tính khoa học, thực tiễn và có cơ sở khoa học chặt chẽ.
Hiện trạng cơ giới hóa trong các khâu công nghệ chủ yếu tại một số mỏ than hầm lò khu vực Uông Bí - Quảng Ninh
03:42 12/11/2013
Nhằm tăng nhanh sản lượng than khai thác hầm lò, đồng thời nâng cao mức độ an toàn và cải thiện điều kiện của người lao động khi khai thác ngày càng xuống sâu, cần thiết phải triển khai áp dụng cơ giới hoá các khâu khấu than, chống giữ lò chợ, vận tải và đào lò phù hợp với điều kiện địa chất các mỏ, nâng cao trình độ cơ khí hóa dây chuyền sản xuất than hầm lò, trong đó cơ giới hóa khai thác và đào chống lò đóng vai trò quan trọng. Đây là yêu cầu tiên quyết đảm bảo phát triển bền vững ngành khai thác than hầm lò Việt Nam.
Phân tích kết quả áp dụng cơ giới hóa khai thác lò chợ tại một số mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh
01:08 05/11/2013
Trong những năm vừa qua công nghệ khai thác than trong lò chợ bằng cơ giới hóa đang được áp dụng thử nghiệm tại một sở mỏ hầm lò thuộc Tập đoàn Công nghiệp than Khoáng sản Việt Nam, việc áp dụng cơ giới hóa khai thác than lò chợ bước đầu đã đem lại kết quả nhất định trong sản xuất kinh doanh, tăng cường mức độ an toàn lao động, giảm số người làm việc trực tiếp tại lò chợ, năng suất lao động cao, sản lượng lò chợ lớn…. Đây là cơ sở cho định hướng công tác triển khai áp dụng rộng rãi hơn nữa, đa dạng hơn nữa, phổ biến hơn nữa công tác cơ giới hóa từng phần, cơ giới hóa đồng bộ quá trình khai thác than trong lò chợ, đồng thời giúp cho việc lựa chọn dây truyền công nghệ, thiết bị chính xác và phù hợp với điều kiện địa chất kỹ thuật mỏ của từng khoáng sàng.
Nghiên cứu ảnh hưởng sức điện động ngược của động cơ công suất lớn đến điều kiện an toàn điện giật đối với mạng điện mỏ hầm lò điện áp 1140 v vùng Quảng Ninh
03:28 29/10/2013
Hiện nay, hầu hết các mạng điện hạ áp mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh có cấp điện áp 660V. Do sản lượng ngày càng cao và khả năng khai thác ngày càng xuống sâu nên chiều dài mạng hạ áp mỏ từ máy biến áp khu vực đến phụ tải ngày càng tăng. Điều này dẫn đến điện áp đặt vào cực phụ tải sẽ giảm thấp hơn giá trị qui định, ảnh hưởng trực tiếp đến điều kiện làm việc của động cơ. Đồng thời chi phí điện năng và tổn thất điện áp trong máy biến áp và trên đường dây tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Việc nâng cấp điện áp mạng từ 660V lên 1140V sẽ giải quyết những bất cập đã nêu trên. Mặt khác, theo các yêu cầu về kỹ thuật khi cung cấp bằng đường cáp đơn, công suất giới hạn của động cơ điện áp 660V là 175 kW. Khi công suất của động cơ Combai từ 175 kW trở lên có lợi hơn cả là chuyển cấp điện áp từ 660V lên 1140V. Như vậy, để nâng cao sản lượng khai thác than, việc nâng cấp các mạng điện mỏ lên 1140 V trong thời gian tới ở các mỏ vùng Quảng Ninh là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, khi nâng cấp điện áp lên 1140V, do các động cơ có công suất lớn lên cần quan tâm đến nguy cơ điện giật do sức điện động ngược của động cơ gây ra khi cắt mạng.
Nghiên cứu ảnh hưởng sức điện động ngược của động cơ công suất lớn đến điều kiện an toàn điện giật đối với mạng điện mỏ hầm lò điện áp 1140 v vùng Quảng Ninh
20:44 20/01/2013
Hiện nay, hầu hết các mạng điện hạ áp mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh có cấp điện áp 660V. Do sản lượng ngày càng cao và khả năng khai thác ngày càng xuống sâu nên chiều dài mạng hạ áp mỏ từ máy biến áp khu vực đến phụ tải ngày càng tăng. Điều này dẫn đến điện áp đặt vào cực phụ tải sẽ giảm thấp hơn giá trị qui định, ảnh hưởng trực tiếp đến điều kiện làm việc của động cơ. Đồng thời chi phí điện năng và tổn thất điện áp trong máy biến áp và trên đường dây tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Việc nâng cấp điện áp mạng từ 660V lên 1140V sẽ giải quyết những bất cập đã nêu trên. Mặt khác, theo các yêu cầu về kỹ thuật khi cung cấp bằng đường cáp đơn, công suất giới hạn của động cơ điện áp 660V là 175 kW. Khi công suất của động cơ Combai từ 175 kW trở lên có lợi hơn cả là chuyển cấp điện áp từ 660V lên 1140V. Như vậy, để nâng cao sản lượng khai thác than, việc nâng cấp các mạng điện mỏ lên 1140 V trong thời gian tới ở các mỏ vùng Quảng Ninh là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, khi nâng cấp điện áp lên 1140V, do các động cơ có công suất lớn lên cần quan tâm đến nguy cơ điện giật do sức điện động ngược của động cơ gây ra khi cắt mạng.